Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm, gây dịch, do virus Varicella Zoster gây nên. Bệnh lây qua đường hô hấp, trên lâm sàng bệnh nhân có biểu hiện sốt, phát ban dạng nốt phỏng ở da và niêm mạc. Bệnh thường diễn biến lành tính, tuy nhiên có thể có một số biến chứng như viêm não, viêm phổi…Sau khi mắc bệnh, bệnh nhân có miễn dịch bền vững.
Hình 1:Trẻ bị Thủy đậu
Triệu chứng khi trẻ bị thủy đậu
- Thời kỳ ủ bệnh: Từ 10- 21 ngày, trung bình 14- 17 ngày. Thời kỳ này hoàn toàn yên lặng, không có triệu chứng.
- Thời kỳ khởi phát: Người bệnh có thể có biểu hiện sốt, đau đầu, đau cơ, một số trường hợp nhất là trẻ em có thể không có triệu chứng báo trước. Một số trường hợp trẻ có thể không sốt. Trong giai đoạn này ở một số bệnh nhân có ban, kích thước nhỏ, màu hồng, nổi trên mặt da, có thể có ngứa. Thời kỳ này kéo dài 24- 48 giờ.
- Thời kỳ toàn phát: Trong thời kỳ này sốt có xu hướng thuyên giảm, ở một số bệnh nhân có tình trang sốt cao và tình trạng nhiễm độc. Biểu hiện đặc trưng của thời kỳ này là xuất hiện ban phỏng nước, khởi đầu là những nốt đỏ, nổi lên mặt da, sau vài giờ các nốt phỏng to dần có dịch trong, các nốt phỏng vỡ để lại vết loét trợt nông trên da, sau đó khô đóng vẩy. Ban thủy đậu có thể xuất hiện ở da và niêm mạc như: miệng, má , hậu môn… Thời kỳ này kéo dài khoảng 5- 7 ngày.
- Thời kỳ hồi phục: Sau khi vẩy khô và bong, nếu không có bội nhiễm người bệnh hồi phục nhanh chóng, các nốt vẩy bong liền da không đẻ lại sẹo.
Biến chứng của thủy đậu
- Thông thường, thủy đậu là bệnh lành tính. Nhưng bệnh cũng có thể gây biến chứng nguy hiểm như: viêm màng não, xuất huyết, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng nốt rạ, viêm mô tế bào, viêm gan… Một số trường hợp có thể gây tử vong nếu người bệnh không được điều trị kịp thời.
- Viêm phổi do thủy đậu, ít khi xảy ra hơn, nhưng rất nặng và rất khó trị.
- Viêm não do thủy đậu cũng xảy ra, không hiếm: sau thủy đậu trẻ bỗng trở nên vật vã, kích thích, nhiều khi kèm theo co giật, hôn mê. Những trường hợp này có thể mang di chứng thần kinh lâu dài: bị điếc, chậm phát triển, động kinh v.v…
- Người mẹ mắc bệnh thủy đậu khi đang mang thai có thể sinh con bị dị tật bẩm sinh sau này.
Chăm sóc khi bị thủy đậu
- Vì là bệnh lây qua đường hô hấp và tiếp xúc trực tiếp với dịch nốt phỏng nên khi trẻ bị thủy đậu, việc đầu tiên là các bậc cha mẹ nên cách ly trẻ tại nhà cho tới khi khỏi hẳn.
- Bổ sung thêm vitamin C, nhỏ mũi 2 lần/ngày bằng dung dịch nước muối sinh lý 0,9%.
- Mặc quần áo vải mềm, rộng, nhẹ, mỏng, thấm hút mồ hôi và đặc biệt chú ý tới việc đảm bảo vệ sinh da cho trẻ để tránh xảy ra biến chứng.
- Khi cần tiếp xúc người bệnh thủy đậu thì phải đeo khẩu trang. Sau khi tiếp xúc phải rửa tay ngay bằng xà phòng. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.
- Nằm trong phòng riêng, thoáng khí, có ánh sáng mặt trời, thời gian cách ly là khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc bắt đầu phát hiện bệnh (phát ban) cho đến khi các nốt phỏng nước khô vảy hoàn toàn.
- Sử dụng các vật dụng sinh hoạt cá nhân riêng: khăn mặt, cốc, chén, bát, đũa.
- Thay quần áo và tắm rửa hàng ngày bằng nước ấm sạch.
Đối với trẻ em:
- Nên cắt móng tay cho trẻ, giữ móng tay và bàn tay trẻ sạch sẽ hoặc có thể dùng bao tay vải để bọc tay trẻ nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi gây trầy xước các nốt phỏng nước.
- Cho trẻ ăn các thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, uống nhiều nước, nhất là nước hoa quả.
- Dùng dung dịch xanh Milian (xanh Methylene) để chấm lên các nốt phỏng nước đã vỡ.
- Trường hợp sốt cao, có thể dùng các thuốc hạ sốt giảm đau thông thường nhưng phải theo hướng dẫn của thầy thuốc, có thể dùng kháng sinh trong trường hợp nốt rạ bị nhiễm trùng: nốt rạ có mủ, tấy đỏ vùng da xung quanh.
Nếu trẻ có các triệu chứng khó chịu, lừ đừ, mệt mỏi, co giật, hôn mê hoặc có xuất huyết trên nốt rạ nên đưa đến ngay các cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị.
Phòng bệnh thủy đậu như thế nào?
Hiện nay đã có vắc-xin phòng bệnh:
+ Đối với trẻ từ 12 tháng tuổi đến 12 tuổi tiêm 1 liều duy nhất.
+ Người lớn và trẻ lớn trên 13 tuổi chưa bị thủy đậu hoặc chưa tiêm phòng nên tiêm phòng 2 mũi mỗi mũi cách nhau 6 tuần là tốt nhất hoặc 4-6 năm./.
ĐD: Đỗ Thị Mai- Khoa Truyền nhiễm BVSN